Vemedim CALPHOVIT (GSGC)
Thức ăn bổ sung vitamin, khoáng, vi khuẩn hữu ích, men tiêu hóa cho gia súc, gia cầm.
Phòng tiêu chảy, còi cọc ở gia súc non Ngừa bại liệt, co giật trước và sau sinh ở gia súc mẹ
Phòng ngừa đẻ trứng non, vỏ mỏng ở gia cầm
THÀNH PHẦN:
CHỈ TIÊU CHẤT LƯỢNG
Trong 1 kg có chứa:
Vitamin A (min) 2 000 000 IU
Vitamin D3 (min) 400 000 IU
Vitamin E (*) (min) 2 000 mg
Zinc (*) (min-max) 6 300-7 700 mg
Iron (min-max) 5 400-6 600 mg
Magnesium (min-max) 4 500-5 500 mg
Manganese (min-max) 5 400-6 600 mg
Copper (min-max) 360-440 mg
Bacillus subtilis (*) (min) 109 CFU
Pediococcus tổng số (min) 106 CFU
Phytase (min) 99 750 IU
Chất mang (Calcium carbonate) vừa đủ…….1 kg
Độ ẩm (max) 9%
Chất cấm Không có
(*) chất chính
THÀNH PHẦN NGUYÊN LIỆU:
Vitamin A, Vitamin D3, Vitamin E, ferrous sulfate, zinc oxide, copper sulfate, magnesium sulfate, manganese sulfate, Phytase, Bacillus subtilis, Pediococcus acidilactici, Calcium carbonate.
CÔNG DỤNG:
Calphovit là sản phẩm bổ sung các loại vitamin, khoáng vi lượng và vi khuẩn hữu ích vào thức ăn nhằm mục đích:
– Giúp heo, bê nghé, gà vịt mau lớn, nặng cân.
– Phòng tiêu chảy, các chứng còi cọc, xù lông ở thú non do cung cấp quần thể vi sinh vật có lợi cho tiêu hóa. Đặc biệt chứa enzyme phytase làm tăng tỉ lệ phospho hữu dụng trong thức ăn.
– Ngừa bại liệt, co giật đối với heo, trâu bò, dê, cừu trước và sau khi đẻ.
– Phòng ngừa hữu hiệu trường hợp đẻ trứng non (chỉ có vỏ lụa), vỏ mỏng ở gà, vịt, ngan, cút.
LIỀU DÙNG:
– Gia súc nuôi thịt:
+ Heo: 1 kg / 600-800 kg thức ăn.
+ Trâu, bò, dê, cừu: 1 kg / 300 kg thức ăn tinh
– Gia súc mang thai và cho sữa:
+ Heo: 1 kg /400-500 kg thức ăn.
+ Trâu, bò, dê, cừu: 1 kg / 200 kg thức ăn tinh.
– Gà, vịt, ngan, cút: 1 kg trộn với 400 kg thức ăn.
Thời gian ngưng sử dụng trước khi giết mổ: 0 ngày
BẢO QUẢN:
Nơi khô thoáng, dưới 30 độ C, tránh ánh sáng. Nhiệt độ ≤ 25 độ C, Ẩm độ ≤75%.
TÍNH CHẤT DƯỢC LÝ:
Dược lực học
Calciurn (Canxi) Calcium là một phân tử thiết yếu, cần thiết cho các chức năng thần kinh và cơ xương, màng tế bào và tính thấm mao mạch và sự hoạt hóa của các phản ứng enzym. Tuy nhiên, chỉ có các calcium ở dạng lon tự do trong máu mới có hoạt tính sinh học nên trong các giai đoạn nhu cầu calcium tăng cao như sau khi sinh, chứng hạ calcium huyết có thể phát sinh. Magnesium (Ma-giê)
Magnesium là một đồng yếu tố trong một số enzym, đóng vai trò quan trọng trong sự hưng phân của các cơ và sự dẫn truyền thần kinh. Magnesium kích thích sự tiết hormone tuyến cân giáp và do đó, điều hòa nồng độ calcium trong huyết thanh. Ở loài nhai lại, đặc biệt sau khi ăn các loại cỏ non, giàu protein, trâu bò thường gặp chứng hạ magnesium huyết.
Sản phẩm Canxi Magne chứa calcium hữu cơ và magnesium ở dang magnesium hypophosphite là những chất ở dạng hoạt hóa. Ngoài ra, trong sản phẩm còn chứa acid boric có tác dụng kết hợp với calcium gluconate hình thành borogluconate, làm tăng khả năng hòa tan và dung nạp trong mô cao, rất hiệu quả trong các trường hợp hạ calcium huyết. Sự kết hợp với magnesium giúp điều hỏa các các động bất lợi lên tìm có thể có của calcium, đặc biệt sau khi dùng quá liều hoặc truyền nhanh và đồng thời cũng giúp điều chỉnh chứng hạ magnesium huyết, thường xảy ra cùng với chứng hạ calcium huyết
Dược động học
Calcium Hơn 90% tổng số calcium trong cơ thể nằm trong xương. Chỉ khoảng 1% 0 dạng ion tự do được trao đổi với calcium trong huyết thanh và dịch kể. Trong huyết thanh, 35-40% calcium gắn kết với các protein, 5-10% tạo phức với các anion và 40-60% ở dạng lon hóa. Calium được bài thải chủ yếu qua phân và 1 lượng nhỏ qua nước tiểu.
Magnesium
Ở thú trưởng thành, khoảng 50% magnesium nằm trong xương, 45% trong dịch nội bào và 1% dịch ngoại bào, trong đó 30% gắn kết với các protein và phần còn lại tồn tại ở dạng lon tự do. Lượng magnesium được sử dụng từ dinh dưỡng thay đổi từ 15- 26% ở bò trưởng thành. Khoảng 80% được hấp thu qua dạ cỏ. Khi bỏ được chăn thả ở những đồng cỏ non, giàu protein, sự hấp thu bị giảm đi 8%. Magnesium được bài thải chủ yếu qua thận với tỉ lệ tương ứng với nông độ trong huyết thanh và lọc cầu thận. Lượng nhỏ bài thải qua sữa, nước bọt và phân. Nồng độ thông thường của ma-giê ở đại gia súc là 1,7-3,0 mg/100 mi và các biểu hiện lâm sàng xuất hiện khi nồng độ giảm còn 1,0/100 ml.
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.